Bài viết này sẽ tập trung phân tích một số quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động giám sát, tuyển dụng lao động theo Dự thảo Luật Bảo Vệ Dữ Liệu Cá Nhân.

Vào ngày 17 tháng 7 năm 2024, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (“Nghị Định 13”). Sau một thời gian triển khai thực tế, Nghị Định 13 đã có những tác động tích cực trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân. Tuy nhiên, đây chỉ là văn bản nghị định, chưa phải là văn bản luật, do đó cần có một văn bản pháp lý có tính nguyên tắc, góp phần hoàn thiện hệ thống các quy định pháp lý liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân. Do đó, Bộ Công An đang trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Bảo Vệ Dữ Liệu Cá Nhân (“Dự Thảo Luật”) để khắc phục những hạn chế của Nghị Định 13, đồng thời hoàn thiện và sắp xếp hành lang pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân. Bài viết này sẽ tập trung phân tích một số quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong hoạt động giám sát, tuyển dụng lao động theo Dự thảo Luật Bảo Vệ Dữ Liệu Cá Nhân.

Cụ thể, Điều 26 của Dự thảo Luật đề xuất quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong giám sát và tuyển dụng lao động, trong đó có đưa ra một số nội dung đáng lưu ý sau:
Người tuyển dụng lao động chỉ được yêu cầu cung cấp các thông tin trong danh sách nội dung đã công khai tuyển dụng hoặc hồ sơ người lao động. Theo Khoản 2 Điều 16 Bộ luật Lao Động năm 2019, người lao động có nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực cho doanh nghiệp về họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, xác nhận tình trạng sức khỏe và các vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà doanh nghiệp yêu cầu. Việc để ngỏ các vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động dẫn đến nhiều doanh nghiệp yêu cầu người lao động cung cấp thông tin và dữ liệu cá nhân có phần không liên quan đến công việc của người lao động. Đây được coi là điểm mới cực kỳ quan trọng nhằm hạn chế tình trạng người lao động cung cấp thông tin không cần thiết, bảo vệ quyền riêng tư của họ.
Thông tin cung cấp trong hồ sơ người lao động được xử lý theo quy định của pháp luật và phải có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu. Như đã đề cập ở trên, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người lao động có nghĩa vụ cung cấp một số thông tin nhất định cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, dường như như người lao động rất khó kiểm soát cách doanh nghiệp xử lý dữ liệu cá nhân của người lao động. Với những quy định tại Dự Thảo Luật, doanh nghiệp có trách nhiệm xử lý dữ liệu cá nhân theo quy định và phải có sự đồng ý của người lao động đối với mọi hoạt động xử lý dữ liệu cá nhân bao gồm thu thập, lưu trữ, phân tích, chuyển cho bên thứ ba và chuyển dữ liệu ra nước ngoài. Quy định này nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xử lý dữ liệu cá nhân, đồng thời đảm bảo việc xử lý thông tin được minh bạch, cũng như giải quyết các vấn đề cho doanh nghiệp khi thực hiện Nghị Định 13. Ngoài ra, Dự Thảo Luật cũng góp phần làm rõ việc áp dụng quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực lao động, vấn đề mà trước đó chưa được đề cập cụ thể và còn gây nhiều vướng mắc trong Nghị Định 13.
Khi dữ liệu cá nhân của người lao động được cập nhật vào hệ thống cơ sở dữ liệu nhân viên toàn cầu: (i) Pháp nhân thu thập, xử lý dữ liệu cá nhân phải chứng minh việc thu thập, xử lý dữ liệu là hợp pháp; và (ii) Chủ thể dữ liệu phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của thông tin do mình cung cấp. Quy định này nhằm yêu cầu doanh nghiệp và người lao động phối hợp trong việc kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân. Ngoài ra, buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp tổ chức, kỹ thuật phù hợp cũng như các biện pháp an toàn, bảo mật để chứng minh hoạt động xử lý dữ liệu đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, buộc người lao động phải chịu trách nhiệm về thông tin mình cung cấp, góp phần bảo đảm tính chính xác, minh bạch cũng như nâng cao hiệu quả quản lý lao động của nhà nước.